Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: “Không  phân biệt quy mô của ngân hàng nhưng vấn đề quan trọng nhất là ngân hàng  đang tồn tại phải hoạt động an toàn, lành mạnh và có hiệu quả”.
 
Ngày 18/10, Ngân hàng Nhà nước thông tin về quan điểm và định  hướng triển khai chủ trương tái cấu trúc hệ thống ngân hàng mà Trung  ương Đảng vừa đưa ra.
Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong 5 năm  tới, củng cố, chấn chỉnh và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là nhiệm vụ  cấp bách của ngành ngân hàng, để cùng với tái cấu trúc đầu tư với trọng  tâm là đầu tư công và tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là  các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, nhằm thực hiện thành  công chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng  trưởng.
Hiện Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng Đề án Tái cơ cấu  ngân hàng nhằm khắc phục những tồn tại, yếu kém và phát triển hệ thống  ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh, có hiệu quả trên cơ sở năng lực  tài chính và quy mô hoạt động đủ lớn, hệ thống quản trị, công nghệ ngân  hàng tiên tiến.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đưa ra bốn quan điểm và nguyên tắc cơ bản đối với quá trình tái cơ cấu này.
Thứ  nhất, phát triển một hệ thống ngân hàng đa dạng về sở hữu, quy mô và  loại hình nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế về dịch vụ ngân  hàng từ thành thị tới nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Về quy mô, hệ  thống ngân hàng có các ngân hàng lớn đủ sức cạnh tranh trong khu vực;  có các ngân hàng lớn làm trụ cột trong hệ thống ngân hàng; có những ngân  hàng vừa và nhỏ, tổ chức tín dụng phi ngân hàng hoạt động có hiệu quả  trong một phân khúc thị trường thích hợp và đáp ứng nhu cầu dịch vụ ngân  hàng mỗi tầng lớp trong xã hội.
Tại hội nghị triển khai nhiệm vụ  ngành ngân hàng những tháng cuối năm 2011 được tổ chức tại Hà Nội ngày  7/9/2011, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cũng đã phát  biểu: “Không phân biệt quy mô của ngân hàng nhưng vấn đề quan trọng nhất  là ngân hàng đang tồn tại phải hoạt động an toàn, lành mạnh và có hiệu  quả”.
Thứ hai, đảm bảo nâng cao tính an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Thứ  ba, việc sáp nhập, hợp nhất ngân hàng theo nguyên tắc tự nguyện, bảo  đảm quyền lợi của người gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các  bên có liên quan.
Thứ tư, tái cơ cấu ngân hàng được triển khai  dưới nhiều hình thức, biện pháp và theo lộ trình thích hợp. Căn cứ vào  đặc điểm của ngân hàng cụ thể sẽ có hình thức và biện pháp hợp lý.
Ngân  hàng Nhà nước cho rằng, sáp nhập, hợp nhất ngân hàng hàng là xu hướng  tất yếu khách quan hiện nay để nâng cao khả năng cạnh tranh. Sáp nhập,  hợp nhất ngân hàng đem lại giá trị gia tăng lớn hơn so với khi các ngân  hàng đứng riêng rẽ nhờ đạt được lợi ích kinh tế theo quy mô lớn hơn,  tăng uy tín, thương hiệu, giảm chi phí, khai thác tối đa lợi thế kinh  doanh của các bên tham gia, phát triển cơ sở khách hàng, màng lưới phân  phối… Do đó, xu hướng sáp nhập, hợp nhất ngân hàng có thể xảy giữa các  ngân hàng lớn với nhau, giữa ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ, giữa các  ngân hàng nhỏ với nhau.
Cơ quan này cũng nhận định, hệ thống văn  bản pháp luật liên quan đến hoạt động sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp  hiện nay tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu  tư, Luật Cạnh tranh, Luật Chứng khoán. Lĩnh vực ngân hàng còn có Luật  Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Luật Các tổ chức tín dụng.
Và trên  cơ sở các văn pháp có liên quan, ngày 11/2/2011 Ngân hàng Nhà nước đã  ban hành Thông tư số 04/2010/TT-NHNN quy định việc sáp nhập, hợp nhất và  mua lại tổ chức tín dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động  sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ chức tín dụng.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cho biết sẵn sàng hỗ trợ kỹ thuật cho các ngân hàng có nguyện vọng sáp nhập, hợp nhất.
*Đến  cuối năm 2010, hệ thống ngân hàng Việt Nam bao gồm 1 ngân hàng phát  triển, 1 ngân hàng chính sách xã hội, 5 ngân hàng thương mại nhà nước và  ngân hàng thương mại có cổ phần chi phối của Nhà nước, 37 ngân hàng  thương mại cổ phần, 50 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng 100%  vốn nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 18 công ty tài chính, 12 công ty  cho thuê tài chính, 1 Quỹ Tín dụng nhân dân Trung ương, hơn 1.000 quỹ  tín dụng nhân dân cơ sở và 1 tổ chức tài chính vi mô.